Thông tin về nhà thuốc Đông y gia truyền dân tộc Trung Thành:

Nhà thuốc Đông Y gia truyền Trung Thành: Địa chỉ 234 Phố Phúc Sơn, Thị Trấn Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa Chuyên đặc trị các bệnh vẩy nến, á sừng, tổ đỉa Vì nhân dân phục vụ, chữa bệnh cứu người, đảm bảo không khỏi không lấy tiền. Phục vụ đồng bào nhân dân ở mọi miền tổ quốc. Liên hệ thầy Thành số điện thoại 0915547153.

Thông tin về nhà thuốc Đông y gia truyền dân tộc Trung Thành:

Nhà thuốc Đông Y gia truyền Trung Thành: Địa chỉ 234 Phố Phúc Sơn, Thị Trấn Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa Chuyên đặc trị các bệnh vẩy nến, á sừng, tổ đỉa Vì nhân dân phục vụ, chữa bệnh cứu người, đảm bảo không khỏi không lấy tiền. Phục vụ đồng bào nhân dân ở mọi miền tổ quốc. Liên hệ thầy Thành số điện thoại 0915547153.

Thông tin về nhà thuốc Đông y gia truyền dân tộc Trung Thành:

Nhà thuốc Đông Y gia truyền Trung Thành: Địa chỉ 234 Phố Phúc Sơn, Thị Trấn Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa Chuyên đặc trị các bệnh vẩy nến, á sừng, tổ đỉa Vì nhân dân phục vụ, chữa bệnh cứu người, đảm bảo không khỏi không lấy tiền. Phục vụ đồng bào nhân dân ở mọi miền tổ quốc. Liên hệ thầy Thành số điện thoại 0915547153.

Thông tin về nhà thuốc Đông y gia truyền dân tộc Trung Thành:

Nhà thuốc Đông Y gia truyền Trung Thành: Địa chỉ 234 Phố Phúc Sơn, Thị Trấn Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa Chuyên đặc trị các bệnh vẩy nến, á sừng, tổ đỉa Vì nhân dân phục vụ, chữa bệnh cứu người, đảm bảo không khỏi không lấy tiền. Phục vụ đồng bào nhân dân ở mọi miền tổ quốc. Liên hệ thầy Thành số điện thoại 0915547153.

Thông tin về nhà thuốc Đông y gia truyền dân tộc Trung Thành:

Nhà thuốc Đông Y gia truyền Trung Thành: Địa chỉ 234 Phố Phúc Sơn, Thị Trấn Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa Chuyên đặc trị các bệnh vẩy nến, á sừng, tổ đỉa Vì nhân dân phục vụ, chữa bệnh cứu người, đảm bảo không khỏi không lấy tiền. Phục vụ đồng bào nhân dân ở mọi miền tổ quốc. Liên hệ thầy Thành số điện thoại 0915547153.

Chào mừng bạn đến website của Nhà Truốc đông y gia truyền dân tộc Trung Thành.

Nhà thuốc Đông Y gia truyền Trung Thành: Địa chỉ 234 Phố Phúc Sơn, Thị Trấn Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa Chuyên đặc trị các bệnh vẩy nến, á sừng, tổ đỉa Vì nhân dân phục vụ, chữa bệnh cứu người, đảm bảo không khỏi không lấy tiền. Phục vụ đồng bào nhân dân ở mọi miền tổ quốc. Liên hệ thầy Thành số điện thoại 0915547153

Wikipedia

Kết quả tìm kiếm

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

Chữa rắn cắn bằng thuốc nam

ST

Khi bị rắn cắn, cần nhanh chóng ga rô trên vết cắn 2cm (1 giờ lới ga rô 5p’; không để ga rô quá 3 giờ) và vệ sinh chỗ rắn cắn, dùng dao con đã khử trùng nhẹ nhàng cạo kỹ, cạo đi cạo lại chỗ cắn, khi cạo ấn nhẹ dao, nắm bóp để các răng lòi ra hết, chỗ cắn dỉ máu ra càng tốt nếu máu không ra thì nhẹ nhàng khêu vào chỗ vết răng cắn ấy cho rỉ máu ra, sau đó có thể dùng 1 quả chứng gà đập đầu to (không để chứng vỡ), lấy con dao nhẹ nhàng bỏ vỏ và vỏ mềm ở đó đi, to nhỏ tùy theo vết răng cắn, lỗ thủng phải tròn đều và nhẵn khi úp vào chỗ cắn không đau, không bị chảy mất nước trứng, úp vào chỗ cắn giữ trứng ở đấy khoảng 15 phút hoặc lâu hơn cũng được, bỏ quả chứng ấy đi, rửa sạch chỗ rắn cắn lại nặn bóp cho máu rỉ ra rồi lại úp quả chứng khác như thế, thường úp 3 đến 5 quả là hết độc.
Kết hợp với uống thuốc cơ thể dùng 1 trong 10 bài thuốc nam sau:
Bài 1: lấy khoảng 20 gam rau răm, giã nát vắt lấy nước uống, bã đắp vào chỗ rắn cắn.
Bài 2: Lá lưỡi liềm 1 nắm, rễ cỏ may 1 nắm, giã nát vắt lấy nước uống, sau 30p’ cho uống và đắp như vậy một lần nữa.
Bài 3: Cây kim vàng 30g giã mịn, phèn chua 6g chộn đều lọc nước uống, bã đắp vào vết thương. Cứ 30 phút cho uống thêm một lần. Sau 2 giờ cho uống tiếp 1 lần, thường uống 2 – 3 ngày là ổn.
Bài 4: Cây rau ngổ tươi rửa sạch 1 nắm giã nát vắt nước bôi vết thương, sau lấy bã đắp lên vết thương.
Bài 5: Cây cọng tôm, cây cỏ giác, cây dưa chuột trời, lá ớt cay, là sắn dây, lá cây vòng lồ, cây chân vịt, lá cây bồ cu vẽ. Tất cả giã trắt lấy nước uống, hoặc sắc uống, uống càng nhiều giải độc càng nhanh.
Bài 6: Cây lá phèn đen rửa sạch, giã nhỏ vắt nước cho bệnh nhân uống, bã đắp vào vết rắn cắn băng lại. ngày làm 2 lần.
Bài 7: Cỏ chỉ thiên 2 phần, lá xuyên tiêu 2 phần, lá găng có gai 1 phần rửa sạch, sấy khô, tán bột cho vào lọ dùng dần khi bị rắn cắn dùng 20 – 30g bột hòa với nước sôi nóng cho bệnh nhân uống; trộn bột thuốc với nước nóng làm thành dịch dẻo đắp vào vết rắn cắn băng lại ngày uống đắp 2 -3 lần.
Bài 8: Lá cây lưỡi rắn 100 – 150g, thuốc nào 1 điếu, 2 thứ giã nát thêm một bát nước vào đun sôi để nguội vắt nước uống, bã đắp lên vết cắn, ngày làm 2 – 3 lần.
Bài 9: Lá cây bồ cu vẽ tươi 50g giã nhỏ thêm ít nước vắt lấy nước uống với nước muối hùng hoàng. Bã đắp lên vết cắn.
Bài 10: Cây lưỡi rắn 50g, lá phèn đen 40g, lá găng có gai 30g lá rau rắm 20g, rễ cây cúc áo 20g, sao vàng hạ thổ, cho 3 bát nước sắc còn 1 bát, chia 4 lần uống trong ngày, uống liền 4 đến 5 ngày.


                                     TTƯT BSCK II Nguyễn Hồng Siêm

Bài thuốc chữa rắn cắn hiệu quả cực nhanh chỉ từ cây dại dễ kiếm

Dù không một tấm biển quảng cáo nhưng khi đến xã Thọ Lâm (huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), hỏi ông Tuấn chuyên chữa rắn cắn bằng lá cây cỏ dại thì ai cũng biết.

Với phương pháp giã lá cây thuốc bí truyền vắt lấy nước uống 1 lần sau 10 phút là có thể vô hiệu hoá tác hại của nọc rắn, ông Tuấn được biết đến là người “khắc tinh” của các loại rắn độc.
Bài thuốc quý từ cây, cỏ dại
Dịp tình cờ trở lại huyện Thọ Xuân (tỉnh Thanh Hóa) công tác, chúng tôi được nghe người dân rỉ tai râm ran những câu chuyện về tài chữa rắn độc cắn thần kỳ của ông An Văn Tuấn (74 tuổi). Ở xứ Thanh, người ta thậm chí chẳng ngần ngại gọi lão nông đã qua tuổi gần đất, xa trời này bằng biệt danh “vua” trị rắn độc nhờ sở hữu bài thuốc Nam đơn giản mà cực kỳ hiệu quả.
Để hiểu rõ thực hư, chúng tôi cất công lặn lội về tận thôn Tân Phúc, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân để tìm vị “vua” rắn độc này.
Phải mất nhiều lần hỏi thăm đường, PV mới tìm đến được làng nơi ông sinh sống. Ông Tuấn nay đã bước sang cái tuổi thất thập cổ lai hy nhưng trông dáng vóc vẫn còn quắc thước, nhanh nhẹn lắm. Đang lúi húi bên vườn cây thuốc trước nhà, thấy có khách tới, ông Tuấn bỏ dở công việc cuốc đất, hồ hởi pha trà mời chúng tôi.
Vừa nhấp chén trà đặc, thơm nóng, ông bắt đầu kể cho PV những câu chuyện về cái nghề của mình: “Bài thuốc cứu giúp những người bị rắn độc cắn thoát khỏi tử thần là do một người dân tộc Mường ở Tây Bắc truyền lại cho tôi trong một lần ghé thăm nhà”.
Bài thuốc chữa rắn cắn hiệu quả cực nhanh chỉ từ cây dại dễ kiếm.
Ông An Văn Tuấn – khắc tinh của các loài rắn độc.
Ông Tuấn kể lại, lúc bấy giờ vào năm 1974, ông đang là bộ đội trên vùng Tây Bắc. Có lần đồng đội tôi bị rắn xanh cắn dẫn đến tử vong vì không có thuốc thang và được cứu kịp thời. Xuất phát từ nguyên nhân đó, ông Tuấn đã quyết tâm tìm hiểu các loại cây cỏ dại trong rừng để hy vọng có thể tìm ra một loại thuốc chữa cho những người bị rắn cắn.
Cơ duyên cũng đã đến với ông trong một lần đơn vị được lệnh di chuyển lên phía bắc vùng Tây Bắc. Tối hôm đó, giữa lúc đang trò chuyện tại một nhà người dân trong bản, ông được một người thầy trong bản tên Krong đồng ý dạy cách chữa trị độc rắn bằng lá cây cỏ trong rừng.
Ngay sáng hôm sau, ông Tuấn theo thầy vào rừng nhìn mặt cây thuốc. Sau lần đó, ông ghi chép tất cả những gì được thầy dạy và những cây thuốc vào sách vở để khỏi quên. “Khi mới bắt đầu đi tìm cây thuốc, tôi cũng thấy khó khăn lắm. Giữa rừng đủ các loại cây, việc phân biệt cây thuốc với những cây khác rất khó khăn. Nếu lấy nhầm, thì thuốc sẽ không có tác dụng mà ngược lại nó còn gây hại cho người uống”, ông Tuấn tâm sự.
Sau này, ông tiếp tục đi khắp nơi để tìm hiểu các loại rắn độc cũng như các loại cây thuốc quý để từ đó có những bài thuốc chữa trị tốt nhất. Không ngại ngần chia sẻ những kinh nghiệm cũng như các bài thuốc chữa bệnh, “vua” khắc tinh rắn độc cho biết: “Bài thuốc chữa rắn cắn rất đơn giản, chỉ là những lá cây cỏ dại trong đời sống hàng ngày mà chúng ta cũng có thể bắt gặp như: Lá cây nghể rong, cây phèn đen, lá cây kim hoàng, lá bồ ngót…”. Ông đem trộn lẫn lộn các vị với nhau rồi giã ra lấy nước để uống. Những cây thuốc này nhìn bề ngoài không khác gì những cây thường, nhưng lại có công hiệu đặc biệt với mọi loại rắn độc.
Tùy vào trường hợp bị rắn gì cắn, thời gian bị cắn, ông Tuấn chế những liều lượng khác nhau cho bệnh nhân uống. Uống thuốc xong, ông luôn dặn dò rất cẩn thận về các trạng thái mà người bị rắn cắn có thể sẽ gặp như tức ngực, khó thở hay nôn mửa. Thông thường đối với bài thuốc trị rắn độc cắn, ông chỉ cho uống duy nhất 1 lần và sau 10 phút là bệnh nhân khỏi hoàn toàn.
Tác dụng cực nhanh
Nói chuyện về hành trình gần 30 năm chữa bệnh cứu người, ông Tuấn cho biết: “Khi người bệnh đến, tôi chỉ cần nhìn vào vết cắn là có thể đã xác định được đó là loại rắn nào. Như rắn khô mộc sau khi cắn thường có tấm đỏ xuất hiện nơi chân lông. Rắn hổ mang cắn thì toàn bộ cơ thể nóng ran lên, hoại tử, vết thương phù nề. Rắn lục cắn chỗ nào bị thâm chỗ đó và làm cho máu đông lại nhanh chóng và rất nguy hiểm, còn rắn cạp nia cắn thì không gây đau đớn nên nhiều người tử vong vì chủ quan.
Phương thuốc chữa bệnh của ông Tuấn là tổng hợp của các loại lá. Nhiều cây thuốc ông trồng được trong vườn những cũng nhiêu vị phải đi lấy trên đồi núi. Mỗi một loại cây thì lấy khoảng 4 đến 5 lá, giã nhỏ rồi lấy nước cho bệnh nhân uống ngay. Nếu người nào không há được miệng thì phải cạy miệng ra hoặc dùng ống đổ thuốc vào kịp thời.
Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo sau khi uống thuốc xong, bệnh nhân phải cấm kỵ việc ăn trứng gà vì nếu sau khi uống thuốc rồi mà ăn trứng thì nọc độc theo đó lại xâm nhập trở lại vào hồng cầu và nó lại phát tác các triệu chứng gây nguy hiểm tới tính mạng. Nói về cuộc đời chữa độc rắn cắn, ông Tuấn cho biết: “Gần 30 năm nay, tôi đã chữa khỏi cho hàng ngàn người bị rắn độc cắn. Những người tìm đến chưa bao giờ tôi phải bó tay. Có trường hợp khi đến trong tình trạng tê liệt toàn thân những sau đó đã lành lặn hoàn toàn”.
Trong mấy chục năm chữa bệnh cứu người, ông vẫn còn nhớ như in họ tên, tuổi, triệu chứng của những ca nặng. Gần đây nhất vào năm 2012, anh Đoàn Văn Quang, trú tại thôn Đăng Lâu, xã Thọ Lâm (Thọ Xuân, Thanh Hóa) bị rắn khô mộc cắn trong lúc đang chặt củi trên đồi. Do cũng biết một số loại thuốc lá nên anh Quang đã tự mình hái thuốc chữa. Ban đầu thấy dấu hiệu bệnh có vẻ thuyên giảm nên chủ quan dừng uống thuốc.
Sau một thời gian thấy chỗ vết rắn cắn ngày càng thâm đen, phù nề, có dấu hiệu hoại tử. Đang trong lúc tình trạng nguy kịch thì anh được mọi người mách tìm đến ông Tuấn. Khi đến nơi, khắp người anh Quang đã bị nổi mẩn đỏ, cơ thể không còn sức cử động. Tuy nhiên, chỉ sau một chén thuốc của ông Tuấn, anh Quang đã cử động được, các nốt đỏ trên người dần biến mất.
Trường hợp khác là anh Bùi Văn Thành ở Xuân Thiên, Thọ Xuân, Thanh Hóa lên đồi chặt cây để chuẩn bị trồng keo, bạch đàn bị một con rắn lục xanh cắn vào cổ chân. Hai tiếng sau, toàn thân bị phù nề, khó thở và có biểu hiện co giật mạnh. Hoảng hốt gia đình đưa anh lên đến nhà ông Tuấn. Sau khi được uống thuốc, anh Thành đã thoát chết trong gang tấc.
Không chỉ có tiếng tại vùng mà người dân nơi khác cũng đã tìm đến ông cầu cứu mạng sống. Đó là trường hợp chị Nguyễn Thị Vân, ở Nga Sơn, Thanh Hóa lặn lội đến ông vì bị rắn cạp nia cắn, làm cho toàn cánh tay thâm tím, phù nề. Vì đường xa nên khi đến nơi thì chị Vân đang trong tình trạng nguy kịch. Tuy nhiên, sau khi uống thuốc 10 phút, cánh tay dần dần hết thâm, cơ thể linh hoạt trở lại.
Dù có được bài thuốc bí truyền nhưng ông Tuấn lại không sử dụng bài thuốc này để làm kế mưu sinh, mà hàng ngày vợ chồng ông vẫn cày cấy, làm nông nghiệp để nuôi con cái. Khi nào có người bị rắn cắn, cần đến thuốc giải là ông sẵn sàng giúp đỡ.
Chuyện ông Tuấn chữa độc rắn đã được chứng minh.
Nói về bài thuốc khắc tinh của các loài rắn độc, ông Hoàng Văn Hải, Trưởng thôn Tân Phúc, xã Thọ Lâm (Thọ Xuân - Thanh Hóa) cho biết: “Việc ông Tuấn dùng lá cây để chữa khỏi rắn độc cắn cho người dân đã được biết đến từ lâu. Chúng tôi không biết ông dùng những thứ lá gì để chữa bệnh. Nhưng thực tế, ông đã chữa khỏi cho rất nhiều người trong và cả ngoài huyện. Nên bà con hàng xóm rất quý mến và gọi ông với cái tên thân mật là khắc tinh của loài rắn độc”.

Vài nét cơ bản về thiền


Thiển (mediatation) là một phượng cách rèn luyện tâm thần nhằm giúp con người thoát khỏi tình trạng ‘suy tư” để đạt tới một trạng thái thư dãn hoàn toàn.
Có nhiểu cách thiền khác nhau (*), nhưng trọng tâm vẫn là tập trung tư tưởng và giúp cho trí óc đươc an bình. Khi tập thiền lâu dài, bạn sẽ nhận thấy là bạn có thể  thiền bất cứ nơi nào  và vào bất cứ lúc nào, có thể giữ được nội tâm  yên tĩnh dù có bất cứ  điều gì xẩy ra xung quanh bạn.
Nhưng muốn thiền thì trước tiên  bạn phải làm sao thuần hoá đươc trí óc của bạn
1-Thu xếp thời gian                                                                                           
Bạn hãy dành đủ thời gian để thiền mỗi ngày vi tập đều mới có kết quả tốt
v     có người cho là thiền chừng năm phút  mỗi ngày là đủ  nhưng cũng có người thích thiền lâu hơn
v     có người muốn thiền vào buổi sáng, có người  muốn giải tỏa trí óc  vào cuối ngày, nhưng cũng có người lại muốn nương náu trong thiển vào  iữa ngày bận rộn.  Tuy vậy thời điểm thiền dễ nhất là vào  buổi sáng khi cơ thề chưa bị mệt mỏi vì  các sự cố trong ngày và trí óc hãy còn  thảnh  thơi
v     không nên thiền ngay sau bữa ăn hoặc khi đang cảm thấy đói bụng vì hệ   tiêu hóa của cơ thể  rất có thể làm bạn mất hứng thú.


2- Tìm kiếm hoặc tạo một môi trường yên tĩnh thư dãn                                     
Điều đặc biệt quan trọng là khi bắt đầu thiền bạn phải tránh tất cả những gì gây trở ngại  cho sự chú tâm (attention). Bạn hãy tắt máy truyền hình, ngắt điện thoại, tháo các thiết bị gây ồn ào. Nếu vặn nhạc, bạn phải chọn loại nhạc êm dịu  lập đi lập lại để bạn không mất tập trung. Thiền ngoài trời cũng đươc nhưng bạn phải chọn nơi ở xa đường phố ổn ào nhộn phịp hoặc những ngưồn gây tiếng động lớn.
3- Ngổi  thiền trên mặt đất bẳng phng 

Bạn có thể ngồi trên gối nệm nếu ngổi trên mặt  đất bạn cảm thấy không thoải mái.




Bạn không phải bắt chéo chân như ngồi tọa sen hoặc có một vị thế ngồi bất bình thường nào. Điều quan trọng là bạn phải giữ lưng cho thẳng để giúp cho sự hít thở sẽ chỉ dẫn sau
v     Bạn cũng có thể ngổi trên ghế để thiền., nhưng phải nhớ giữ lưng cho thẳng.(dù là tựa lưng vào ghế hay không). Hai bàn chân của bạn phải bám chặt với mặt đất
v     Dù trong khi thư dãn bạn đang ở bất cứ vị thế nào, lưng của bạn cũng vẫn có thể giữ cho thẳng ngay cả khi bạn ở vị thế nằm, nhưng bạn đừng quá thư dãn đến nỗi ngủ thiếp đi.

4- Hé mở mắt nhưng không chú mục vào bất cứ cái gì  
                               
Nếu điều này làm bạn lãng trí hay khó khăn đối với bạn thì bạn có thể nhắm mắt lại hoăc tìm một cái gì không thay đổi --như một ngọn nến nhỏ chẳng hạn-- để tập trung chú ý vào

5- Thở cho sâu và chậm, bằng bụng thay vỉ bằng ngực.

Bạn phải cảm thấy bụng đưa lên xẹp xuống (**) trong khi lồng ngực tương đối bất động. Hơi thở giúp bạn thư dãn nếu khi thở vào bạn đếm tới ba và thở ra đếm tới sáu, và lập đi lập lại như vậy trong vòng từ 15 đến 20 phút. Thở như vậy,     không khí dùng rồi sẽ  bị thải ra khỏi cơ thể, máu nhận đươc nhiều oxigen, nhịp tim sẽ chậm lại và áp huyết sẽ giảm  Có nhiều bệnh nhân  áp huyết giảm tới 50 điểm cho nên có thể  giảm hoặc bỏ hẳn thuốc cao huyết áp. Bạn cẩn tập thở đểu đặn mỗi ngày

6- Thư dãn từng cơ bắp
 
Bạn không nên vội, vì  muốn hoàn toàn thư dãn phải cẩn thời  gian. Bạn  cứ tâp thư dãn dẩn dần, bắt đẩu tù đẩu ngón chân, để rồi cuối cùng  lên tới đầu và mọi  căng thẳng tiêu tan hết

7- Tập trung vào sư chú ý

Chắc bạn đã để ý thấy là đẩu óc bạn  hay suy nghĩ lan man, nhảy từ tư tưởng nọ sang tư tưởng kia ,  có những nhận xét vể những điều khác nữa. Bạn hãy hướng nhẹ nhàng sự chú ý của bạn vào một điểm đơn giản  cho tới khi nó ở lại  tại đó một cách tự nhiên. Mục đích là làm cho đầu óc dần dần hết suy nghĩ lan man và tìm một “cái neo” để ổn định trí óc.
v     Bạn hãy để sự chú ý của bạn buông theo nhịp thở.Bạn hãy lắng nghe, theo dõi hơi thở nhưng đừng suy xét gì hết
v     Để khắc phục những tiếng “thì thầm” trong óc  ban hãy đọc một câu “chú” với nhip đều đặn như chữ “nam mô” chẳng hạn. Bạn có thể đọc thành tiếng hoặc nhẩm trong đầu.  Những người mới ngối thiền có thể thấy đếm nhip thở của mình dễ dàng hơn tức là  đếm nhịp thở từ 1 đến 10 rồi bắt đâu lại từ 1 và cứ như thế mãi)
v     Để chặn không cho những hình ảnh xen vào tư tưởng của bạn, bạn hãy  hình dung ra một nơi nào đem lại sự yên tĩnh cho bạn. Đây có thể là một nơi chốn có thực hoặc tưởng tượng. Thí dụ bạn có thể tưởng tượng mình  đang đứng trên một  thang lầu dẫn tới một nơi hết sức bình an, rồi bạn hãy  đếm từng  bước thang cho tới khi bạn cảm thấy bình tâm và thư dãn




v     Đối với một số người , sự tập trung  chú ý vào một điểm hay một vật lại có tác dụng ngược với điểu mà chúng ta chờ đợi ở thiển bởi vì nó đưa chúng ta trở vể  cuộc sống với những nỗ lực, chú ý, tập trung và căng thẳng. Trong trường hợp này, nhiểu chuyên gia  cho rẳng đừng nên chú trong vào sư tập trung chú ý vào một điểm hay một vật mà lại nên tìm cách đạt tới “trạng thái trống không” ( state of zero), tức là không còn chú ý và suy nghĩ về bất cứ điều gì hết ..




8-  Giữ  cho trí óc yên lặng

Một khi bạn đã rèn luyện được trí óc để chỉ chú tâm vào một điều, thì  giai đoan kế tiếp  là làm sao cho trí óc không còn tập trung vào bất cứ cái gì, chủ yếu là   “giải tỏa sạch sẽ trí óc” . Đây là một thử thách cam go nhưng cũng là đỉnh  cao của thiền. Sau khi đã chú tâm vào một điểm duy nhất như nói ở giai đoan trên, bạn có thể  hoặc xóa bỏ điểm ấy  hoặc nhìn điểm ấy một cách khách quan và  làm cho nó chợt hiện chợt biến mà không quan tâm nó là xấu hay tốt. Bạn hãy làm như vậy cho bất cứ ý tường gì  đến với bạn cho tới khi  đạt đươc sự “im lặng” trường tồn.
Ghi chú
(*) Cách cách thiền khác nhau
1- Tâp trung vào hơi thở của chính  mình. Đây là cách thiền đơn giản nhất và có thể là thông thường nhất
2- Niệm chú  Lập đi lập lại một từ nào đó. Tác giả cuốn The Relaxation Response để nghị niệm con số “một” (one) mỗi lần thở ra
3- Cầu nguyện  Đây là cách giao cảm với đấng Tối cao tạo nên vạn vật để xưng tụng công đức, dâng lời khấu tạ, cẩu xin che chở…
4- Tập trung sự chú ý vào một giác quan Chẳng hạn như chỉ chú ý vào những gì nghe thấy hoặc vào những gì cảm thấy
5- Hình dung  sự vật trong trí óc (visualization). Chặng hạn như tưởng tượng bản thân mình thoát  ra khỏi cơ thể vật chất
6-Thiền trong khi đi  Chú tâm vào tiến trình bước đi từng bước
(**)  Cơ bản vể sự thở bằng bụng
1- Giữ tư thế thích hợp
v     nẳm ngửa, đầu gối gập lại
v     ngổi thẳng lưng trên ghế , đủ xa về phiá trước để cho bộ phận sinh dục ở ngoài ghế
v     đứng ở thế tự nhiên, chân hướng về phiá trước và ở ngay phiá dưới vai, tay buông thõng hai bên người
2- thư dãn cơ thể
3- thư dãn từ từ
4- chú tâm vào phẩn bụng dưới, gạt bỏ các suy nghĩ ra khỏi đầu
5- đừng tập trung sự chú ý vào bất cứ điều gì
6- đặt  gan một  bàn tay lên bụng khoảng một inch dưới rốn, và gan bàn tay kia ở vùng xương ức
7- thở ra đằng mồm và  thóp nhe nhàng bung vào
8- hít vào đằng mũi và phình bụng ra, chú trọng vào phía bụng dưới
9- giữ cho lổng ngực tương đối bất động
10-cứ thế tiếp tục tới bao nhiêu lần cũng đươc. Lúc bắt đầu nên tập thở chín lần
                                                      ( How to meditate-Wikihow)

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

Chân dung ông đồ


 Copy từ  https://www.facebook.com/quangduc.tran?hc_location=timeline
Khoa thi Nho học cuối cùng đánh dấu chấm hết cho trang sử Hán học ở Việt Nam. Từ đây, một số người theo lối học cũ mất phương hướng, chuyển sang các nghề xem bói, xem tướng, địa lý, phong thủy, đợi khi tết đến xuân về thì tụ tập ở phố Hàng Bồ, lần đầu tiên mở ra cái gọi là ''phố ông đồ''. Tuy nhiên, qua phóng sự của Ngô Tất Tố nhân dịp đầu xuân năm 1940, hai mươi lăm năm sau kỳ thi khoa cử cuối cùng diễn ra tại miền Bắc, có thể thấy chữ nghĩa ở phố ông đồ thời kỳ này đã đi đến điểm cuối cùng của sự mạt hạng. Song dù sao, năm 1940 cuối thời buổi giao thoa giữa cái cũ và cái mới, vẫn là thời điểm người ta còn quen với thứ văn chương, chữ nghĩa cổ giả, vẫn còn phân biệt được xấu đẹp dở hay. Giờ đây, 74 năm sau cái thời mạt năm Kỷ Mão, lướt qua một lượt phố (ki ốt) ông đồ Văn Miếu, người rành Hán Nôm có thể dễ dàng nhận thấy ở đây chữ nghĩa nghuệch ngoạc, thơ thẩn bốc mùi, lác đác lại chêm vào mấy bức chữ quốc ngữ a bờ cờ được viết bằng một mùi sến sẩm và sáo rỗng.
Bàn về phố ông đồ thời nay, tôi chỉ xin lưu ý mấy điểm:
1. Xưa nay người văn hay chữ tốt không ngồi vỉa hè bán chữ.
2. Đã ra đường bán chữ thì đều có mục đích kinh doanh, đều là những lái buôn nấp bóng chữ nghĩa và râu tóc.
3. Các ông đồ thời nay cần quy hoạch, bằng không sẽ xảy ra chuyện lấn chiếm, cãi lộn, chặt chém khách hàng.
4. Đừng nghĩ ông đồ có râu tóc thì chữ đẹp thơ hay, anh đồ trẻ trâu thì non tay bộp chộp. Thời nay nhiều khi ngược lại.

PS: CHÂN DUNG ÔNG ĐỒ

Hán học cuối năm Kỷ Mão
Ngô Tất Tố
Hà Nội tân văn
Số 5 – 6.2.1940, số Chúc Mừng Năm Mới

Tôi muốn nói về văn chương của bọn nhà Nho ở phố Hàng Bồ Hà Nội . Gọi là nhà Nho kể ra cũng chưa ổn thoả vì các ông ấy chỉ là những người biết cầm cái quản bút lông, đáng lẽ còn phải đi một đoạn đường dài lắm , mới vào đến cổng làng Nho.

Nhưng mà từ khi dân phu Nam Định rỡ đi hết những bức rào nứa của trường Hà Nam khoa cuối cùng, vận mệnh Hán học ở Bắc Kỳ cũng như những chiếc chõng một lều tàn , không phải đắc dụng với thời đại , thì họ đã phải dừng chân mà họ vừa bước tới nơi .

Ất Mão đến Kỷ Mão , thấm thoắt hai mươi nhăm năm.

Một ngày không được chăm sóc đứa trẻ măng sữa sự bị tiều tuỵ hao gầy . Những ông này chỉ là măng sữa của một thời đại cũ , không được hưởng sự chăm sóc của xã hội . Hai mươi nhăm năm lạc bước trong thời đại mới , họ vẫn bơ vơ đúng giữa ngã ba với những cơn gió mưa cát bụi, để chờ có ngày chấm dấu hết cho trang lịch sử Hán học của nước Việt Nam , cái lịch sử đã trải nhiều phen rực rỡ.

Ngày thường họ vẫn tản mác đi ra nhiều ngả. Xem bói , xem tuớng , đoán thẻ ở các cửa đền , đó là những đường sinh nhai của họ. Cố nhiên cách sinh nhai ấy , với họ không có gì là vẻ vang . Vì vậy họ vẫn mong đợi cái ngày thiên hạ nô nức đón tin xuân, để cùng nhau trở lại dãy ghế bán bồ ngày xưa mà ghi dấu vết điêu tàn của Hán học .

Có ai trông thấy quang cảnh lủi thủi của dân Chàm không ? Tôi có cảm tưởng như đi vào một làng Chàm Bình Thuận tuy tôi gặp họ giữa cái Hà Nội ngày Tết .

Năm nay vắng hơn năm ngoái . “ Xóm Chàm” của Hán học đó chỉ lơ thơ độ mười lăm người. Hình như sự kinh nghiệm từ mấy mươi năm nay đã bảo họ rằng ngồi bên số chẵn không lợi , nên họ đua nhau sang bên số lẻ , cố góp với sự náo nhiệt của mấy mụ hàng tranh .

Đó ai mà không cảm động , khi ngó thấy những ông rau ráu ngồi trên chiếc chiếu nửa trải nữa cuộn , đăm đăm nhìn vào chậu mực ruồi bâu . Người ta thình lình phải nhớ đến sự thịnh vượng của thời đại khoa cử . Sự cảm động ấy giục tôi phải nhìn cho rõ chân tướng của “Xóm Chàm” ấy , để thử đánh dấu cái mực sa sút của nền Hán học đương tàn.

Nhưng việc đó không thể tựa vào mấy bức câu đối chữ Hán, vì nó toàn là sáo cũ . Tôi phải tìm đến thi ca quốc âm.

Bắt đầu vào bức rào nứa của một toà nhà đương phá , tôi thấy sau đống gạch mới , một cụ đương cùng ông bạn nói chuyện tầm long với chiếc ba-đờ-xuy đen xẫm và ba chòm râu phất phơi, cụ này coi bộ phong lưu nho nhã hơn các đồng nghiệp . Người ta có thể ngờ là cụ bảng , cụ nghè , nếu không gặp cụ đi bán câu đối .

Mọi ngày cụ ấy thường viết thơ nôm. Hôm nay trên bức rào nứa , văn nôm của cụ chỉ có hai câu thế này :

Ba vạn sáu nghìn ngày , già trẻ ấm no nhờ lộc tổ;
Một năm mười hai tháng , phong lưu nhàn hạ đội ơn trời.

Thì ra văn chương của cụ, không “ nghè” không “ bảng” chút nào .
Qua dãy tranh gà chuột , đến cái chiếu của hai cụ khác. Hình như trước đây tôi đã có thấy các cụ ngồi ở ven hè với một quyển sách vẽ hình bát quái , nhưng không nhớ là hè phố nào. Các cụ tiếp tôi một cách vồn vã , và giở thi tập ra đọc , khi tôi hỏi các cụ có thơ nôm không. Nhưng lúc tôi muốn coi lại bản nháp, thì cụ nọ đưa mắt cụ kia , tỏ ra thái độ khinh bỉ , như sợ tôi ăn cắp mất những giai tác để làm một nghề với cụ .

Thế cũng phải . Văn chương bây giờ không còn là của vô chủ , nó đã có quyền sở hữu, lẽ nào người ta lại để cho mình xem không, nhưng cái quyền sở hữu của một bài thơ ngày Tết , hợp với cả tờ giấy đỏ , mới đáng có năm đồng xu. Tôi phải hy sinh một số tiền ấy để xin các cụ giáp cho hai thiên kiệt tác cất kín ở trong đáy trap. Các cụ lại vui vẽ đãi tôi vào hàng quý khách và sốt sắng chép cho hai bài sau đây :

Mừng nay xuân đã đến từng nhà,
Ắt hẳn xuân tình bạn với ta,
Xuân tưới cụm lan pha vẻ ngọc ,
Xuân đầu khóm quế đượm mầu hoa.
Xuân vui rượu cúc chừng năm, bẩy.
Xuân hứng chè sen độ một vài
Trời đất lâu dài xuân mãi mãi,
Xuân đi xuân lại biết bao là.

Bài thứ hai nó còn hay hơn nữa. Nó như sau này :

Đông đã qua rồi lại đến xuân.
Mưa hoà, gió thuận, sắc thanh tân,
Xanh, vàng , đỏ, tía , hoa trăm thức,
Nồng nhạt thơm tho , rượu mấy tuần,
Trồi quế tốt tươi hương sực nức,
Chim oanh ríu rít tiếng xa gần,
Ơn trời khang thọ xuân còn rộng,
Tam chúc hoa phong cũng có phần.

Từ giã hai lão tiên sinh , tôi xuống gian hàng kế tiếp phía dưới. Ở đây cũng hai cụ. Tuy cũng là kiểu bó gối gọng bừa, nhưng mỗi cụ ngồi mỗi khác: cụ này úp hai bàn tay lên trên đầu gối, cụ kia thì khoá bàn tay ôm lấy hai ống chân. Bằng cái số tiền năm xu, tôi được hai cụ vui vẻ giáp cho hai bài thơ nữa. Một bài như vầy:

Mới độ xuân nào, nay lại xuân,
Muôn hồng nghìn tía nở đầy sân,
Câu thơ Lý Bạch ngâm vài khúc,
Chén rượu Lưu Linh chúc mấy tuần,
Trước cửa hoa chào phô vẽ sắc,
Lầu cao yến hót hứa đa ngân,
Trăm năm cảnh thế xuân còn mãi,
Hạnh phúc trời cho tiếp lộc dân.

Giả sử không có mấy chữ “ hứa đa ngân” , thì hai xu rưỡi một bài thơ này cũng chưa đắt lắm. Còn bài nữa xin miễn chép lại.

Cách hai cụ đó chừng năm sáu cửa, thì là chỗ ngồi của một ông trẻ tuổi. Khốn nạn! ông này hẳn không đẻ kịp cái hồi xô sát của cuộc lều chõng, cớ làm sao cũng đi vào con đường này? Tôi rất áy náy khi thấy nét chữ ông có vẻ hoạt bát, và không nguệch ngoạc như bút tích của mấy cụ kia. Với năm đồng xu nhuận bút, ông ấy giở sách ra chép cho tôi một bài thơ và một bài hát nói. Nhưng nó vô ích cho tôi vì bài thơ đó trùng nhau với bài thứ nhất trên kia, còn bài hát nói thì thiếu mất hai câu đầu và hai câu cuối. Nhưng mà ông ấy nhất định cãi thế là đủ. Có lẽ tác giả chưa biết cái điệu hát nói thế nào.

Bây giờ đến chỗ cuối phố, cái chỗ gần nơi máy nước Hàng Thiếc. Canh cái lon sành đựng mực, một cụ đương thu hai tay vào bọc, ngơ ngẩn nhìn những người đi qua.
Tôi đã phạm vào tội ăn trộm, vì tôi không mất năm xu mà đọc được một bài sau này, không biết là thơ hay gì:

Cửu thập thiều quang xuân lại thủ,
Khách chơi xuân tỉnh say với xuân.
Khi chè K.Th. khi rượu Vân Hương,
Ra sức ngả nghiêng trong vũ trụ,
Nào pháo B.Đ. nào câu đối đỏ,
Để mà tô điểm vói giang sơn,
Trời đất có xuân, xuân mới mãi,
Trẻ già thêm tuổi, tuổi càng cao,
Xuân tình, xuân tứ, xuân tâm,
Cỏ xuân muôn tía, nghìn hồng thiếu chi.
Lan hữu tú hề, cúc hữu phương.

Có lẽ nó là thơ mới, ai bảo phong trào thơ mới chưa lan đến hạng lão thành! Nếu như mất năm đồng xu mà mua bài thơ mới ấy thì cũng oan cho cái túi của tôi. Với bài ấy đáng lẽ có thể kết luận được rồi. Muốn cho tài liệu dồi dào, tôi phải sang thăm ông cụ ở bên số chẵn.

Khác hẳn các cụ ở bên số lẻ, cụ này lại có một cô con gái theo hầu và cái biểu đề chữ “Liễu trang đệ tử”. Té ra cụ ấy kiêm cả nghề thầy tướng. Chữ cũ tuy không tốt, song không đến xấu lắm. Trong bức tứ bình đả thảo, nét chữ múa may như ngọn cỏ gặp cơn gió cuồng. Tôi cũng xin nộp số tiền như đã nộp cho các cụ kia, để xin cụ giáp cho mấy bài thơ của cụ. Và tôi suýt nữa phải sa nước mắt, khi thấy cụ kèo nèo nài thêm một xu.

- Tuyết ơi! Tuyết ! Hãy trông hàng đấy.
Vừa dặn con gái, cụ vừa lục cái thúng nhòi tìm cây bút nhỏ, rồi viết mấy bài như sau:

Hoa đào hớn hở báo tin xuân,
Mới cả giang sơn, mới cả dân,
Pháo nổ mừng xuân vang thế giới,
Rượu mùi chúc thọ nức hương lân,
Ngày xuân đầm ấm cảnh thung dung,
Trở dậy trông ra sắc đỏ hồng,
Hoa cỏ tranh đua đều biếc biếc,
Màu xuân rực rỡ khắp non song,
Năm canh vắng vẻ giấc êm đềm,
Tiết khí xuân hồi ấm suốt đêm,
Ví được quanh năm như thế mãi,
Thì cây dương liễu nảy chồi thêm,
Xuân về lá cỏ xanh mầu biếc,
Thì đến hoa mai nhoẻn miệng ra,
Quanh gối chia bùi cùng cháu chắt,
Ngoài hiên thỏ thẻ tiếng oanh ca.

Thế là đủ. Đủ bằng chứng để xét cái mực Hán học cuối năm Kỷ Mão. Tuy không phải toàn thể Hán học là như thế, nhưng nó cũng đã đi tới bực ấy.
Có ai ngờ rằng một nền học thuật đã hơn nghìn năm làm khuôn, làm mẫu cho đạo đức chính trị của một dân tộc, bây giờ sa sút đến thế này!
Nếu dưới suối vàng bà Huyện Thanh Quan và cụ Tam nguyên Yên Đổ nghe được những bài thơ ấy , chắc phải uất lên mà chết một lần nữa.

Hình ảnh: Khoa thi Nho học cuối cùng đánh dấu chấm hết cho trang sử Hán học ở Việt Nam. Từ đây, một số người theo lối học cũ mất phương hướng, chuyển sang các nghề xem bói, xem tướng, địa lý, phong thủy, đợi khi tết đến xuân về thì tụ tập ở phố Hàng Bồ, lần đầu tiên mở ra cái gọi là ''phố ông đồ''. Tuy nhiên, qua phóng sự của Ngô Tất Tố nhân dịp đầu xuân năm 1940, hai mươi lăm năm sau kỳ thi khoa cử cuối cùng diễn ra tại miền Bắc, có thể thấy chữ nghĩa ở phố ông đồ thời kỳ này đã đi đến điểm cuối cùng của sự mạt hạng. Song dù sao, năm 1940 cuối thời buổi giao thoa giữa cái cũ và cái mới, vẫn là thời điểm người ta còn quen với thứ văn chương, chữ nghĩa cổ giả, vẫn còn phân biệt được xấu đẹp dở hay. Giờ đây, 74 năm sau cái thời mạt năm Kỷ Mão, lướt qua một lượt phố (ki ốt) ông đồ Văn Miếu, người rành Hán Nôm có thể dễ dàng nhận thấy ở đây chữ nghĩa nghuệch ngoạc, thơ thẩn bốc mùi, lác đác lại chêm vào mấy bức chữ quốc ngữ a bờ cờ được viết bằng một mùi sến sẩm và sáo rỗng.  Bàn về phố ông đồ thời nay, tôi chỉ xin lưu ý mấy điểm:  1. Xưa nay người văn hay chữ tốt không ngồi vỉa hè bán chữ.  2. Đã ra đường bán chữ thì đều có mục đích kinh doanh, đều là những lái buôn nấp bóng chữ nghĩa và râu tóc.  3. Các ông đồ thời nay cần quy hoạch, bằng không sẽ xảy ra chuyện lấn chiếm, cãi lộn, chặt chém khách hàng. 4. Đừng nghĩ ông đồ có râu tóc thì chữ đẹp thơ hay, anh đồ trẻ trâu thì non tay bộp chộp. Thời nay nhiều khi ngược lại.  PS: CHÂN DUNG ÔNG ĐỒ  Hán học cuối năm Kỷ Mão Ngô Tất Tố Hà Nội tân văn Số 5 – 6.2.1940, số Chúc Mừng Năm Mới  Tôi muốn nói về văn chương của bọn nhà Nho ở phố Hàng Bồ Hà Nội . Gọi là nhà Nho kể ra cũng chưa ổn thoả vì các ông ấy chỉ là những người biết cầm cái quản bút lông, đáng lẽ còn phải đi một đoạn đường dài lắm , mới vào đến cổng làng Nho.  Nhưng mà từ khi dân phu Nam Định rỡ đi hết những bức rào nứa của trường Hà Nam khoa cuối cùng, vận mệnh Hán học ở Bắc Kỳ cũng như những chiếc chõng một lều tàn , không phải đắc dụng với thời đại , thì họ đã phải dừng chân mà họ vừa bước tới nơi .  Ất Mão đến Kỷ Mão , thấm thoắt hai mươi nhăm năm.  Một ngày không được chăm sóc đứa trẻ măng sữa sự bị tiều tuỵ hao gầy . Những ông này chỉ là măng sữa của một thời đại cũ , không được hưởng sự chăm sóc của xã hội . Hai mươi nhăm năm lạc bước trong thời đại mới , họ vẫn bơ vơ đúng giữa ngã ba với những cơn gió mưa cát bụi, để chờ có ngày chấm dấu hết cho trang lịch sử Hán học của nước Việt Nam , cái lịch sử đã trải nhiều phen rực rỡ.  Ngày thường họ vẫn tản mác đi ra nhiều ngả. Xem bói , xem tuớng , đoán thẻ ở các cửa đền , đó là những đường sinh nhai của họ. Cố nhiên cách sinh nhai ấy , với họ không có gì là vẻ vang . Vì vậy họ vẫn mong đợi cái ngày thiên hạ nô nức đón tin xuân, để cùng nhau trở lại dãy ghế bán bồ ngày xưa mà ghi dấu vết điêu tàn của Hán học .  Có ai trông thấy quang cảnh lủi thủi của dân Chàm không ? Tôi có cảm tưởng như đi vào một làng Chàm Bình Thuận tuy tôi gặp họ giữa cái Hà Nội ngày Tết .  Năm nay vắng hơn năm ngoái . “ Xóm Chàm” của Hán học đó chỉ lơ thơ độ mười lăm người. Hình như sự kinh nghiệm từ mấy mươi năm nay đã bảo họ rằng ngồi bên số chẵn không lợi , nên họ đua nhau sang bên số lẻ , cố góp với sự náo nhiệt của mấy mụ hàng tranh .  Đó ai mà không cảm động , khi ngó thấy những ông rau ráu ngồi trên chiếc chiếu nửa trải nữa cuộn , đăm đăm nhìn vào chậu mực ruồi bâu . Người ta thình lình phải nhớ đến sự thịnh vượng của thời đại khoa cử . Sự cảm động ấy giục tôi phải nhìn cho rõ chân tướng của “Xóm Chàm” ấy , để thử đánh dấu cái mực sa sút của nền Hán học đương tàn.  Nhưng việc đó không thể tựa vào mấy bức câu đối chữ Hán, vì nó toàn là sáo cũ . Tôi phải tìm đến thi ca quốc âm.  Bắt đầu vào bức rào nứa của một toà nhà đương phá , tôi thấy sau đống gạch mới , một cụ đương cùng ông bạn nói chuyện tầm long với chiếc ba-đờ-xuy đen xẫm và ba chòm râu phất phơi, cụ này coi bộ phong lưu nho nhã hơn các đồng nghiệp . Người ta có thể ngờ là cụ bảng , cụ nghè , nếu không gặp cụ đi bán câu đối .  Mọi ngày cụ ấy thường viết thơ nôm. Hôm nay trên bức rào nứa , văn nôm của cụ chỉ có hai câu thế này :  Ba vạn sáu nghìn ngày , già trẻ ấm no nhờ lộc tổ; Một năm mười hai tháng , phong lưu nhàn hạ đội ơn trời.  Thì ra văn chương của cụ, không “ nghè” không “ bảng” chút nào . Qua dãy tranh gà chuột , đến cái chiếu của hai cụ khác. Hình như trước đây tôi đã có thấy các cụ ngồi ở ven hè với một quyển sách vẽ hình bát quái , nhưng không nhớ là hè phố nào. Các cụ tiếp tôi một cách vồn vã , và giở thi tập ra đọc , khi tôi hỏi các cụ có thơ nôm không. Nhưng lúc tôi muốn coi lại bản nháp, thì cụ nọ đưa mắt cụ kia , tỏ ra thái độ khinh bỉ , như sợ tôi ăn cắp mất những giai tác để làm một nghề với cụ .  Thế cũng phải . Văn chương bây giờ không còn là của vô chủ , nó đã có quyền sở hữu, lẽ nào người ta lại để cho mình xem không, nhưng cái quyền sở hữu của một bài thơ ngày Tết , hợp với cả tờ giấy đỏ , mới đáng có năm đồng xu. Tôi phải hy sinh một số tiền ấy để xin các cụ giáp cho hai thiên kiệt tác cất kín ở trong đáy trap. Các cụ lại vui vẽ đãi tôi vào hàng quý khách và sốt sắng chép cho hai bài sau đây :  Mừng nay xuân đã đến từng nhà, Ắt hẳn xuân tình bạn với ta, Xuân tưới cụm lan pha vẻ ngọc , Xuân đầu khóm quế đượm mầu hoa. Xuân vui rượu cúc chừng năm, bẩy. Xuân hứng chè sen độ một vài Trời đất lâu dài xuân mãi mãi, Xuân đi xuân lại biết bao là.  Bài thứ hai nó còn hay hơn nữa. Nó như sau này :  Đông đã qua rồi lại đến xuân. Mưa hoà, gió thuận, sắc thanh tân, Xanh, vàng , đỏ, tía , hoa trăm thức, Nồng nhạt thơm tho , rượu mấy tuần, Trồi quế tốt tươi hương sực nức, Chim oanh ríu rít tiếng xa gần, Ơn trời khang thọ xuân còn rộng, Tam chúc hoa phong cũng có phần.  Từ giã hai lão tiên sinh , tôi xuống gian hàng kế tiếp phía dưới. Ở đây cũng hai cụ. Tuy cũng là kiểu bó gối gọng bừa, nhưng mỗi cụ ngồi mỗi khác: cụ này úp hai bàn tay lên trên đầu gối, cụ kia thì khoá bàn tay ôm lấy hai ống chân. Bằng cái số tiền năm xu, tôi được hai cụ vui vẻ giáp cho hai bài thơ nữa. Một bài như vầy:  Mới độ xuân nào, nay lại xuân, Muôn hồng nghìn tía nở đầy sân, Câu thơ Lý Bạch ngâm vài khúc, Chén rượu Lưu Linh chúc mấy tuần, Trước cửa hoa chào phô vẽ sắc, Lầu cao yến hót hứa đa ngân, Trăm năm cảnh thế xuân còn mãi, Hạnh phúc trời cho tiếp lộc dân.  Giả sử không có mấy chữ “ hứa đa ngân” , thì hai xu rưỡi một bài thơ này cũng chưa đắt lắm. Còn bài nữa xin miễn chép lại.  Cách hai cụ đó chừng năm sáu cửa, thì là chỗ ngồi của một ông trẻ tuổi. Khốn nạn! ông này hẳn không đẻ kịp cái hồi xô sát của cuộc lều chõng, cớ làm sao cũng đi vào con đường này? Tôi rất áy náy khi thấy nét chữ ông có vẻ hoạt bát, và không nguệch ngoạc như bút tích của mấy cụ kia. Với năm đồng xu nhuận bút, ông ấy giở sách ra chép cho tôi một bài thơ và một bài hát nói. Nhưng nó vô ích cho tôi vì bài thơ đó trùng nhau với bài thứ nhất trên kia, còn bài hát nói thì thiếu mất hai câu đầu và hai câu cuối. Nhưng mà ông ấy nhất định cãi thế là đủ. Có lẽ tác giả chưa biết cái điệu hát nói thế nào.  Bây giờ đến chỗ cuối phố, cái chỗ gần nơi máy nước Hàng Thiếc. Canh cái lon sành đựng mực, một cụ đương thu hai tay vào bọc, ngơ ngẩn nhìn những người đi qua. Tôi đã phạm vào tội ăn trộm, vì tôi không mất năm xu mà đọc được một bài sau này, không biết là thơ hay gì:  Cửu thập thiều quang xuân lại thủ, Khách chơi xuân tỉnh say với xuân. Khi chè K.Th. khi rượu Vân Hương, Ra sức ngả nghiêng trong vũ trụ, Nào pháo B.Đ. nào câu đối đỏ, Để mà tô điểm vói giang sơn, Trời đất có xuân, xuân mới mãi, Trẻ già thêm tuổi, tuổi càng cao, Xuân tình, xuân tứ, xuân tâm, Cỏ xuân muôn tía, nghìn hồng thiếu chi. Lan hữu tú hề, cúc hữu phương.  Có lẽ nó là thơ mới, ai bảo phong trào thơ mới chưa lan đến hạng lão thành! Nếu như mất năm đồng xu mà mua bài thơ mới ấy thì cũng oan cho cái túi của tôi. Với bài ấy đáng lẽ có thể kết luận được rồi. Muốn cho tài liệu dồi dào, tôi phải sang thăm ông cụ ở bên số chẵn.  Khác hẳn các cụ ở bên số lẻ, cụ này lại có một cô con gái theo hầu và cái biểu đề chữ “Liễu trang đệ tử”. Té ra cụ ấy kiêm cả nghề thầy tướng. Chữ cũ tuy không tốt, song không đến xấu lắm. Trong bức tứ bình đả thảo, nét chữ múa may như ngọn cỏ gặp cơn gió cuồng. Tôi cũng xin nộp số tiền như đã nộp cho các cụ kia, để xin cụ giáp cho mấy bài thơ của cụ. Và tôi suýt nữa phải sa nước mắt, khi thấy cụ kèo nèo nài thêm một xu.  - Tuyết ơi! Tuyết ! Hãy trông hàng đấy. Vừa dặn con gái, cụ vừa lục cái thúng nhòi tìm cây bút nhỏ, rồi viết mấy bài như sau:  Hoa đào hớn hở báo tin xuân, Mới cả giang sơn, mới cả dân, Pháo nổ mừng xuân vang thế giới, Rượu mùi chúc thọ nức hương lân, Ngày xuân đầm ấm cảnh thung dung, Trở dậy trông ra sắc đỏ hồng, Hoa cỏ tranh đua đều biếc biếc, Màu xuân rực rỡ khắp non song, Năm canh vắng vẻ giấc êm đềm, Tiết khí xuân hồi ấm suốt đêm, Ví được quanh năm như thế mãi, Thì cây dương liễu nảy chồi thêm, Xuân về lá cỏ xanh mầu biếc, Thì đến hoa mai nhoẻn miệng ra, Quanh gối chia bùi cùng cháu chắt, Ngoài hiên thỏ thẻ tiếng oanh ca.  Thế là đủ. Đủ bằng chứng để xét cái mực Hán học cuối năm Kỷ Mão. Tuy không phải toàn thể Hán học là như thế, nhưng nó cũng đã đi tới bực ấy. Có ai ngờ rằng một nền học thuật đã hơn nghìn năm làm khuôn, làm mẫu cho đạo đức chính trị của một dân tộc, bây giờ sa sút đến thế này! Nếu dưới suối vàng bà Huyện Thanh Quan và cụ Tam nguyên Yên Đổ nghe được những bài thơ ấy , chắc phải uất lên mà chết một lần nữa.

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Cơn đau Tim và NƯỚC !

Một bác sĩ tim mạch nói rằng, nếu mỗi người đọc được thông tin này mà chia sẻ cho 10 người biết thì chúng ta sẽ cứu được ít nhất 1 người:

Cơn đau Tim và NƯỚC !

Khi bạn đứng, cơ thể giữ nước ở phần dưới của cơ thể, khiến chân bạn sưng lên. Khi bạn nằm xuống, cơ thể hạ xuống thấp hơn, do đó, thận thải nước dễ dàng hơn, độc tố cũng dễ dàng loại bỏ hơn.

RẤT QUAN TRỌNG, xin hãy ghi nhớ:


- 2 ly nước sau khi thức dậy - giúp kích hoạt các cơ quan nội tạng
- 1 ly nước 30 phút trước bữa ăn - giúp tiêu hóa
- 1 ly nước trước khi tắm - giúp giảm huyết áp
- 1 ly nước trước khi đi ngủ - tránh đột quỵ hoặc đau tim.

Kết quả một số công trình nghiên cứu cho thấy trước khi đi ngủ, uống một cốc nước có thể giúp phòng ngừa chứng tai biến mạch máu não.


Trong thực tế, những trường hợp tai biến mạch máu não thường xảy ra vào sáng sớm. Sau một đêm dài cơ thể không được cung cấp nước, máu trở nên đặc hơn, và đây là một trong những nguyên nhân dễ dẫn đến tai biến mạch máu não.

Trong một ngày, máu có lúc đặc lúc loãng, đồng thời có một quy luật nhất định. Buổi sáng, từ 4 giờ đến 8 giờ, là lúc máu đông đặc nhất, sau đó dần dần loãng ra, đến khoảng 12 giờ đêm là thời điểm loãng nhất, rồi dần dần đặc lại, và đến buổi sáng hôm sau lại lên đến đỉnh cao.

Vì vậy, mỗi chúng ta, nhất là những người lớn tuổi, buổi tối trước khi đi ngủ nên uống khoảng 200 ml nước (chừng một cốc), thì sáng ngủ dậy, không những máu không bị đặc mà còn loãng ra.

Các chuyên gia y học cũng khuyên rằng, buổi tối trước khi đi ngủ uống nước khiến cho máu loãng ra, có lợi cho sự tuần hoàn của mạch máu, giúp phòng chống tai biến mạch máu não.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tai biến mạch máu não, sự đông đặc của máu tăng lên chỉ là một trong những nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, có thể khẳng định thói quen uống nước trước khi đi ngủ có tác dụng nhất định đối với việc phòng chống tai biến mạch máu não.

LÀM SAO ĐỂ SỐNG QUA CƠN ĐAU TIM KHI BẠN Ở 1 MÌNH

Người bệnh khi lên cơn đau tim thì tim họ sẽ đập loạn nhịp, yếu. Sau đó, họ cảm thấy choáng, uể oải.

Khi bắt đầu cảm thấy như thế, thì chỉ còn 10 giây nữa họ sẽ ngất.

Tuy nhiên người bệnh có thể tự giúp mình bằng cách ngay lập tức ho rất mạnh, rất dài và rất sâu (như khạc đờm từ sâu trong ngực). Đồng thời, trước và xen kẽ mỗi cơn ho người bệnh hít 1 hơi thật sâu.

Người bệnh cần lặp lại hít thở sâu và cơn ho như trên mỗi 2s,
chỉ dừng lại cho đến khi cảm thấy tim đập trở lại bình thường và người có thể giúp đỡ đến.

Hít thở sâu giúp cho oxy vào phổi nhiều hơn bình thường và mỗi cơn ho dài, mạnh, sâu giúp bóp mạnh quả tim làm cho máu lưu thông.

1 bác sĩ tim mạch nói rằng, nếu mỗi người đọc được thông tin này
mà chia sẻ cho 10 người biết thì chúng ta sẽ cứu được ít nhất 1 người.

Xin vui lòng chia sẻ!

Nguồn Dr Azhar Sheikh
(copy từ nhà của BS Tuan Nguyen)

Chọn tuổi xông nhà Tết Giáp Ngọ 2014


st

Nếu chủ nhà tuổi Kỷ Mùi (1979) thì người xông nhà hợp nhất Tết này sinh năm Kỷ Hợi (1959).


Khi chọn tuổi xông nhà, gia chủ thường tìm người hợp với mình về tuổi và mệnh, tính tình vui vẻ, dễ chịu, công việc làm ăn tốt, cuộc sống thuận hòa. Nếu tuổi người đó hợp với năm Giáp Ngọ thì càng tốt. Các yếu tố sau đây sẽ giúp bạn chọn được người phù hợp:
1. Hợp Can Chi của gia chủ
Trước hết, tuổi của vị khách xông đất cần hợp với tuổi của chủ nhà (về Thiên Can và Địa Chi), trong đó hợp về Thiên Can (còn gọi là Can) được cho là quan trọng hơn hợp về Địa Chi (còn gọi là Chi).
- Hợp Can - chọn người có Can hợp với Can của chủ nhà, tránh người có Can khắc với Can của gia chủ:
hop-can-khac-can-6959-1390306105.jpg
- Hợp Chi - chọn người có Chi Tam hợp hoặc Chi Nhị hợp với Chi của chủ nhà:
hop-chi-5659-1390306105.jpg
2. Hợp mệnh của gia chủ - chọn người có Mệnh tương sinh với Mệnh của gia chủ:
menh-tuong-sinh-7619-1390306105.jpg
3. Hợp với năm Giáp Ngọ
Nếu gia chủ may mắn có nhiều lựa chọn cho việc xông đất thì có thể tiếp tục cân nhắc, tìm người hợp với Can (Giáp), Chi (Ngọ) và Mệnh (Kim ) của năm Giáp Ngọ. Cách chọn cũng tương tự như đã giải thích ở trên.
Chú giải:
Năm sinh của mỗi người được xắp xếp theo Can và Chi, ví dụ năm 2014 là Giáp Ngọ, trong đó Giáp thuộc Can và Ngọ thuộc Chi. Người ta phân biệt:
- 10 Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quý.
- 12 Chi (12 con giáp): Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi.
bang-tra-cuu-menh-8735-1390306105.jpg
Bảng tra cứu chọn tuổi xông nhà cho năm Giáp Ngọ 2014:
1. Năm sinh của chủ nhà: 1940 - 1949
40-49-3236-1390306105.jpg
2. Năm sinh của chủ nhà: 1950-1959
50-59-1909-1390306106.jpg
3. Năm sinh của chủ nhà: 1960-1969
60-69-2645-1390306106.jpg
4. Năm sinh của chủ nhà: 1970-1979
70-79-4239-1390306106.jpg
5. Năm sinh của chủ nhà: 1980-1989
80-89-5681-1390306106.jpg
6. Năm sinh của chủ nhà: 1990-1996
90-96-7403-1390306106.jpg
Hùng Sơn

Chọn theo trạch lưu niên
 

Nếu chọn được người có tuổi trạch tốt, cần lưu ý tránh tuổi xung. Cụ thể: Tý – Ngọ xung khắc, Mão – Dậu xung khắc, Thìn – Tuất xung khắc, Sửu – Mùi xung khắc, Dần – Thân xung khắc, Tỵ – Hợi xung khắc.
(Tin Mới)

Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014

Những bí ẩn cuộc đời - Kết luận

CHƯƠNG 25
KẾT LUẬN

Trong sách này, chúng ta đã cùng nhau đi qua một quãng đường dài, bắt đầu từ câu chuyện xảy ra trong một căn phòng khách sạn ở Dayton, Ohio, Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng thần nhãn trong giấc thôi miên để lần đầu tiên xác nhận rằng thuyết luân hồi là một điều có thật.
Câu chuyện ấy và những chuyện tương tự khác nối tiếp theo sau về vấn đề luân hồi nhân quả có vẻ như chỉ là một nền tảng chưa đủ vững chắc để xây dựng trên đó cả một tòa lâu đài tâm lý và triết học mà ta đã xét qua những nét đại cương trong sách này. Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học ta vẫn thường thấy những phát minh lớn lao làm đảo lộn cả một thế hệ cũng dường như chỉ luôn bắt đầu từ những chuyện rất nhỏ nhặt. Một cái đùi ếch bị điện giật và một mẩu bánh mì mốc meo dường như là những sự vật quá nhỏ mọn không đủ để phát minh ra bình ắc-quy điện và thuốc trụ sinh Penicilline, nhưng sự thật thì đó chính là những nguyên nhân đầu tiên đưa đến hai sự phát minh kỳ diệu kể trên. Một ngọn đèn lồng đưa lủng lẳng trong một nhà thờ cổ ở một làng nhỏ thuộc nước Ý đã đưa ông Galilée đến việc phát minh ra một đồng hồ thiên văn. Một bồn nước tràn đã giúp cho ông Archimede tìm ra một định luật quan trọng về sức đẩy của nước.
Lịch sử đã đưa đến cho ta nhiều thí dụ tương tự. Chúng ta phải nhìn nhận rằng sự thật có thể tìm ra được từ những khởi đầu giản dị tầm thường, và chúng ta sẽ không ngạc nhiên mà thấy một người học thức ít oi, không tài ba, thiếu văn hóa, khi rơi vào giấc ngủ thôi miên lại có thể đưa ra những bằng chứng quan trọng để chứng minh cho một lý thuyết căn bản về kiếp sống con người.
Bây giờ, chúng ta hãy tóm lại những gì đã được chứng minh qua những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ngoài những bằng chứng hiển nhiên khác về sự thật của hiện tượng thần nhãn.
Có tất cả bảy điểm chính sau đây:
1. Sự phân tách tâm lý và diễn tả hoàn cảnh bên ngoài của những người hoàn toàn xa lạ ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hàng ngàn trường hợp, đã được xác nhận là đúng với sự thật.
2. Sự tiên đoán về những thiên tư, khả năng và nhiều điểm khác của đương sự đã được chứng thực trong nhiều năm về sau, không những đối với những người lớn mà cả với những trẻ sơ sinh.
3. Những đặc điểm về tánh tình của đương sự được truy nguyên một cách hợp lý từ những kinh nghiệm thâu thập ở các kiếp trước.
4. Những lời tiên đoán đưa ra trong giấc thôi miên của ông Cayce đều chính xác và không hề trái ngược nhau, không những trên nguyên tắc đại cương mà cả trong từng chi tiết nhỏ nhặt, trong hàng trăm cuộc soi kiếp khác nhau vào những thời kỳ khác nhau.
5. Những tài liệu lịch sử chưa rõ ràng đã được kiểm chứng lại bằng cách tra cứu các văn khố; tên tuổi của các nhân vật đã được tìm thấy tại những địa điểm mà các cuộc soi kiếp nêu ra.
6. Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà đương sự đã chấp nhận và nghe theo đã giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời về phương diện tâm lý, nghề nghiệp cũng như sức khỏe, thể chất.
7. Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết lý và tâm lý trong các cuộc soi kiếp đều phù hợp với những đạo lý cổ truyền đã từng được giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ trước.
Nói tóm lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh cho những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về thuyết luân hồi nhân quả.
Những người khắt khe có thể cho rằng bấy nhiêu đó chưa đủ là những bằng chứng cụ thể và tuyệt đối chắc chắn, nhưng họ vẫn không thể phủ nhận rằng chúng có một giá trị xác tín nhất định.
Xét cho cùng, vào những thời điểm đầu tiên khi khoa học chứng minh rằng trái đất tròn, thì người ta cũng chỉ dựa vào sự lập luận là chính chứ chưa thể tận mắt nhìn thấy hình tròn của trái đất như quả cam trong lòng bàn tay. Tương tự, những hiểu biết nguyên tử cũng được hình thành ban đầu từ sự suy luận chứ không ai có thể nhìn thấy tận mắt các hạt nguyên tử. Tuy vậy, căn cứ trên niềm tin vào những sự suy luận đó, người ta mới dần dần phát triển những kiến thức này, và đã có thể vạch ra những lộ trình cụ thể đi vòng quanh trái đất, cũng như đã chế tạo thành công bom nguyên tử và sử dụng năng lượng hạt nhân vào đời sống.
Những sự thật này không ai có thể phủ nhận được nữa! Như vậy, thật không phải là một điều quá đáng khi nói rằng người ta nên bắt đầu có những cuộc sưu tầm và nghiên cứu thật cụ thể về thuyết luân hồi nhân quả, với khởi điểm ban đầu là kết quả những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce.
Trong thực tế, cho dù thuyết nhân quả có được chứng minh cụ thể bằng những bằng chứng khoa học hay không, điều đó cũng không quan trọng. Chỉ cần chúng ta nhận hiểu và đặt niềm tin vào thuyết này, thì mọi tư tưởng, hành vi của ta chắc chắn sẽ lập tức được thay đổi theo hướng ngày một tốt đẹp hơn. Và điều này thì chắc chắn không một ai có thể phê phán hay phản đối. Khi mỗi người đều sống với thuyết nhân quả, luôn cư xử và hành động với sự cân nhắc về kết quả việc làm của mình, không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai lâu dài, thì điều chắc chắn là những sự tự xét mình đó sẽ giúp cho xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp và hoàn thiện hơn.

Note

1Ông tên thật là Claudius Ptolemaeus, sống vào khoảng thế kỷ 2 ở Alexandria, Ai Cập. Ông là nhà thiên văn học đầu tiên đề xướng lý thuyết về vũ trụ lấy trái đất làm trung tâm điểm và mặt trời, mặt trăng cũng như các tinh tú đều quay chung quanh trái đất. Lý thuyết sai lầm này tồn tại mãi đến thế kỷ 16.
2Tức Nicolaus Copernicus (1473-1543), nhà thiên văn học nổi tiếng người Ba Lan, đã đề ra lý thuyết về vũ trụ lấy mặt trời làm trung tâm điểm.
3Galileo (1564-1642), nhà vật lý và thiên văn học Ý, đã chứng minh rằng quan điểm của Aristote về vật rơi tự do là sai lầm. Ông cũng là người bị Giáo hội La Mã buộc tội vì ủng hộ quan điểm của Copernicus, vốn đi ngược lại sự truyền dạy của Giáo hội.
4Hertz: đơn vị đo tần số được gọi theo tên của nhà vật lý người Đức Heinrich Rudolf Hertz, có nghĩa là chu kỳ trong một giây đồng hồ. Một kilohertz (kHz) có nghĩa là một ngàn chu kỳ trong một giây, megaherzt (MHz) là một triệu chu kỳ trong một giây và gigaherzt (GHz) là một tỷ chu kỳ trong một giây.
5Emanuel Swedenborg (1688-1772), nhà khoa học người Thụy Điển, cũng là triết gia và một nhà thần học.
6Joseph Banks Rhine (1895-1980), nhà tâm lý học người Mỹ, sinh tại Waterloo, thuộc bang Pennsylvania, tốt nghiệp các trường Đại học Chicago, Harvard và Duke. Ông là giáo sư dạy môn tâm lý học ở trường Đại học Duke từ năm 1928 đến năm 1950.
7Franz Anton Mesmer (1734-1815), bác sĩ người Áo, tốt nghiệp trường Đại học Vienne và là người đề xướng thuật khả năng chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên. Ông khám phá và mô tả một năng lực bí ẩn của con người giống như từ trường, về sau được gọi là nhân điện và đã được một số chuyên gia ứng dụng trong việc chữa bệnh.
8Heinrich Schliemann, nhà khảo cổ người Đức, sinh năm 1822 và mất năm 1890.
9Lafcadio Tessima Carlos Hearn (1850-1904), là nhà văn Hy Lạp gốc Ireland, là người đóng góp quan trọng trong việc giới thiệu nền văn hóa Nhật Bản với phương Tây. Ông sinh ra trên đảo Levks thuộc Hy Lạp nhưng lớn lên ở Ireland, Anh quốc và Pháp. Năm 19 tuổi, ông di cư đến Hoa Kỳ rồi viết báo ở Cincinnati thuộc bang Ohio và sau đó ở New Orleans thuộc Louisiana.
10Thomas Edward Lawrence, cũng được gọi là Lawrence of Arabia, sinh năm 1888 và mất năm 1935, là một nhà thám hiểm người Anh, từng tham gia quân đội và cũng là một nhà văn nổi tiếng.
11Carl Gustav Jung, nhà tâm lý học Thụy Điển sinh ngày 26 tháng 7 năm 1875 và mất ngày 6 tháng 6 năm 1961. Ông là một nhà tâm lý học nổi tiếng, đã sáng lập một trong các trường phái mới của bộ môn tâm lý học. Ông vận dụng và phát triển các kết quả nghiên cứu của Sigmund Freud, rồi sau đó đi theo một hướng riêng của mình. Ông tốt nghiệp y khoa năm 1902 tại các đại học Basel và Zurich, nhưng đồng thời cũng có kiến thức uyên bác về các ngành sinh học, động vật học, nhân văn học và khảo cổ học. Ông đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa tâm lý học và đức tin trong tôn giáo.

Những khía cạnh của luật nhân quả - chương 23-24

CHƯƠNG 23
NHỮNG KHÍA CẠNH CỦA LUẬT NHÂN QUẢ


Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù do kiếp trước khi sống trong một bộ lạc ở Ba Tư đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những tù binh để hành tội.

Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao người này phải chịu trách nhiệm về một việc làm tuân theo những tục lệ địa phương thời đó? Xét cho cùng, ông ta không thể làm khác hơn những gì xã hội đương thời đòi hỏi, vậy tại sao ông phải chịu quả báo trong khi ông chỉ thừa hành một công việc mà xã hội bắt buộc ông phải làm?

Chẳng hạn như vào thời nước Pháp còn dùng những quân đao phủ để thi hành các bản án tử hình. Người đao phủ ấy chỉ là một nhân viên thừa hành và không thể làm gì khác hơn được. Có thể nào người ấy phải chịu quả báo khi thực hiện một công việc do luật pháp đã phán định hay chăng? Nhưng nếu là không, thì tại sao người của bộ lạc nước Ba Tư thời cổ khi lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh lại phải chịu quả báo?

Trước đây chúng ta đã thấy rằng không chỉ riêng hành động gây nên nghiệp quả, mà chính những tư tưởng làm động lực thúc đẩy trong lòng người, làm cơ sở biểu lộ ra hành động ấy mới là yếu tố quan trọng hơn trong việc tạo nên nghiệp quả.

Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay cộng nghiệp. Nếu mọi người trong một xã hội cùng tán thành và thực hiện những tập quán xấu xa, độc ác, gây đau khổ cho nhiều người, thì tất cả những người thuộc về cộng đồng xã hội đó đều phải chia sẻ trách nhiệm và nhận lãnh quả báo xấu.

Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác là những điều xấu ác, thì tất cả những thành viên của xã hội tàn bạo đó đều có thể xem là phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng là gián tiếp.

Tội ác đó sẽ càng tăng thêm nếu một người biết rằng những tập tục đó là độc ác mà vẫn tán thành và không làm gì để trừ bỏ đi. Và nếu họ trực tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy thì tội ác sẽ càng tăng hơn thêm.

Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt người khác chỉ vì họ là tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người hành hình đó tự trong lòng mình có sự chống đối, không tán thành việc làm hung bạo này, và chỉ thực hiện công việc vì bị bắt buộc thì có lẽ nghiệp ác tạo ra sẽ được giảm nhẹ. Nhưng nếu trong khi thực hiện công việc ấy mà tự trong lòng ông tán thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác tương đương với tập tục xấu ác đó, thì chắc chắn là quả báo sẽ phải nặng nề hơn.

Nếu người nhạc sĩ nói trên trước đây chỉ thực hiện công việc với một tinh thần trong sạch, hoàn toàn không vì thỏa mãn dục vọng riêng tư, không có lòng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, thì ác nghiệp tạo ra sẽ được giảm nhẹ.

Cũng theo lập luận đó nên khi thấy rằng người ấy đã chịu quả báo mù lòa trong kiếp này thì ta có thể kết luận ngay rằng ông ta trước đây đã nuôi lòng hung ác trong khi thực hiện công việc hành tội người khác.

Trong chương 11, chúng ta đã thấy rằng một nhận thức không toàn diện về luật nhân quả có thể làm cho người ta phải băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn đề xã hội và không biết phải hành động như thế nào cho hợp lẽ.

Chẳng hạn, chúng ta đã thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đã đưa đến cảnh nghèo khổ khốn khó trong kiếp hiện tại. Và nếu những sự khốn khổ của con người đều do những việc làm xấu ác của họ gây nên trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác? Ta có nên ngoảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng:

- Này ông bạn, ông bạn đau khổ vì quả báo do ông bạn tự gây ra chứ không phải oan uổng gì đâu. Tôi không thể giúp gì cho ông bạn, vì tôi không muốn can thiệp vào luật nhân quả.

Và ta có nên nghĩ rằng thiện cảm dành cho những “tội nhân” ấy là một thái độ sai lầm, và lòng nhân từ đối với họ là một điều đặt không đúng chỗ trước những tác động hoàn toàn khách quan của luật nhân quả hay chăng?

Như đã nói, sự thật thì những thắc mắc như trên đều là xuất phát từ một nhận thức không toàn diện về luật nhân quả. Nhưng có lẽ ta cũng không nên giải đáp những câu hỏi này một cách hấp tấp vội vàng, và với một sự chủ quan bồng bột.

Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không thể không chịu hình phạt xứng đáng. Nếu vì lòng nhân hậu mà người ta để cho kẻ ấy được tự do sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi, thì rất có thể một tội ác tiếp theo đó sẽ xảy ra. Chúng ta cũng biết rằng, một người học trò kém cỏi không thể cố gắng học hết chương trình nếu vị thầy dạy quá dễ dãi và không xử phạt nghiêm khắc những lần trốn học. Chúng ta cũng biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời nếu người mẹ luôn bênh vực không để nó phải chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của người cha.

Tuy thế, sự thờ ơ trước những khổ đau của những người khác không bao giờ có thể xem là một việc nên làm. Do tính chất phức hợp của luật nhân quả nên bản thân việc này cũng là một nhân xấu sẽ mang lại quả xấu cho ta trong tương lai. Trong thực tế, vào bất kỳ thời điểm nào ta cũng thấy có những người luôn cố gắng hoạt động trong các công trình cứu tế từ thiện để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại. Những người này thường không có sự suy tính hơn thiệt, mà họ hành động vì sự thúc đẩy của lòng nhân ái. Chúng ta không thể phán xét rằng những người này đang chống lại luật nhân quả khi họ nỗ lực giúp đỡ những người chịu quả báo xấu. Một phán xét như vậy là phiến diện và sai lầm, xuất phát từ sự không hiểu biết đầy đủ về luật nhân quả.

Trở lại với những thí dụ minh họa mà ta vừa nêu ra ở trên. Vị quan tòa phán xử nghiêm khắc một tội nhân không phải do lòng ác độc, mà vì luật pháp của một xã hội đã được soạn thảo theo cách cố gắng bảo vệ tất cả mọi người trong xã hội đó một cách công bằng. Vì thế, vị quan tòa có bổn phận phải tuân theo luật pháp. Và khi ông làm đúng như vậy thì điều đó không thể xem là thiếu lòng nhân ái. Trong thực tế, tất cả những vị quan tòa cương trực, nghiêm khắc thật ra đều là những người tốt, biết gạt bỏ mọi sự tư lợi để luôn hành động theo lẽ phải, vì lợi ích của tất cả mọi người.

Tương tự như thế, một thầy giáo nghiêm khắc không phải là người thiếu tình thương đối với học trò, mà thật ra chính vì yêu thương và mong muốn cho người học trò của mình thành đạt nên ông mới hết lòng quan tâm đến việc học của anh ta cũng như thực hiện mọi biện pháp kỷ luật cần thiết để răn dạy. Một người học trò khi thực sự thành đạt chỉ có thể hết lòng biết ơn về sự dạy dỗ nghiêm khắc của thầy chứ không thể xem đó là những biểu hiện của sự thiếu tình yêu thương.

Cũng vậy, một người cha có thể tỏ ra nghiêm khắc với con cái khi cần thiết, bởi trong lòng ông luôn muốn dành cho con mình một sự giáo dục tốt nhất, chứ không phải vì ông không thương con bằng người mẹ.

So sánh với cả ba trường hợp kể trên thì sự thương yêu giúp đỡ những người khốn khổ trong xã hội hoàn toàn không giống với việc cản trở quan tòa thi hành pháp luật hay ngăn cản người thầy, người cha trong việc dạy dỗ... Bởi vì sự giúp đỡ và an ủi một người khi họ đang rơi vào hoàn cảnh khốn khổ là xuất phát từ tấm lòng chân thật và hướng thiện của ta, còn quả báo mà người ấy đang nhận lãnh là xuất phát từ những tư tưởng và hành vi không tốt của họ trong quá khứ. Hai điều này có thể tương tác với nhau nhưng không hề cản trở, mâu thuẫn nhau. Ta có thể giúp giảm nhẹ nỗi đau khổ của một người nhưng không thể ngăn cản quả báo xấu đến với họ, cho dù ta có muốn làm như thế. Nhưng sự giúp đỡ an ủi của ta có thể cảm hóa phần nào những tính xấu có thể đang còn tồn tại nơi người ấy, và điều đó sẽ có tác dụng rất tích cực trong việc giúp giảm nhẹ quả báo mà họ đang hứng chịu.

Mặt khác, khi ta biết thương yêu giúp đỡ người khác là ta đang xây dựng tương lai tốt đẹp cho chính mình. Và nếu tất cả mọi người đều biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau thì một cộng đồng xã hội như vậy chắc chắn sẽ là một môi trường tốt đẹp và lý tưởng cho tất cả mọi người. Vì thế, ta không thể vì những lỗi lầm trong quá khứ của một người mà quay lưng với người ấy, khiến cho bản thân mình lại trở thành một kẻ lãnh đạm, thờ ơ, khô khan tình cảm. Ngay cả sự khoan hồng đối với tội nhân cũng luôn được thực hiện ở nhiều xã hội khác nhau, và không ai cho đó là một sai lầm. Vì chính sự khoan dung và tha thứ có tác dụng chuyển hóa còn mạnh mẽ hơn cả những hình phạt nghiêm khắc nhất. Trong một số trường hợp, sự trừng phạt có thể tạo ra tâm trạng oán hận và có tác dụng ngược lại, trong khi sự khoan hồng bao giờ cũng mang đến sự biết ơn và cảm hóa.

Cuộc đời của ông Edgar Cayce có thể xem là một tấm gương vị tha và tích cực giúp đỡ người khác. Những người đến với ông trong cơn khốn khổ đều được ông giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để giúp họ giảm nhẹ mọi nỗi đau khổ, cho dù hơn ai hết ông luôn nhìn thấu mọi tội lỗi, sai lầm của họ trong quá khứ. Trong suốt bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và nhân ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràng là con người luôn chịu sự chi phối của luật nhân quả mà phương Đông đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận rằng lòng thương yêu và lý tưởng phụng sự bao giờ cũng là nền tảng dẫn đến mọi điều tốt đẹp.

Vì thế, bất kể rằng tội lỗi của một người khác là như thế nào trong những kiếp quá khứ, ta vẫn nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng bao giờ lầm tưởng rằng làm như thế là có thể can thiệp vào tác động của luật nhân quả.

Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng sự thờ ơ lãnh đạm truớc sự đau khổ của kẻ khác cũng là một điều xấu ác sẽ đưa đến quả báo xấu về sau này.

Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị này là con người luôn có quyền tự do ý chí trong mọi hành động và không phải tất cả mọi việc trong cuộc đời đều đã được định sẵn từng chi tiết một cách bất di bất dịch. Mỗi một sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đang khổ đau hoạn nạn không chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự hoàn thiện tâm hồn mình, mà còn là một nhân tố tích cực có thể làm thay đổi cả thái độ tinh thần và cuộc đời của đương sự.

Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả đều là do tư tưởng và hành vi tạo nên. Những hành vi sai trái, những cung cách xử thế sai lầm, đều có nguyên nhân từ sự lầm lạc trong tư tưởng. Vì thế, người ta chỉ có thể thay đổi thái độ đối với cuộc đời theo hướng tốt đẹp hơn bằng cách hoàn thiện phần tư tưởng.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố xác định rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và nếu không có sự thay đổi tư tưởng theo hướng tốt đẹp hơn thì người ta không thể sửa đổi lại những nghiệp quả xấu ác đã gây ra từ trước.

Luật nhân quả quyết định một cách chắc chắn rằng mỗi con người tự tạo nên cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật nhân quả không áp đặt bất cứ điều gì lên sự tự do ý chí của con người, nhưng đảm bảo một cách chính xác rằng mỗi một hành vi hay tư tưởng của chúng ta trong hiện tại đều sẽ mang đến những kết quả tương xứng trong tương lai. Và điều này thúc đẩy mọi người phải hết sức nỗ lực để tự tu dưỡng bản thân, hướng đến một tương lai ngày càng tốt đẹp hơn nữa.

Chính vì hiểu rõ luật nhân quả nên người Phật tử luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm của cuộc đời. Điều mà họ quan tâm nhất không phải là hoàn cảnh trong hiện tại tốt hay xấu, mà chính là việc mình đã làm được những gì để tích lũy cho tương lai. Và quan điểm sống đó bao giờ cũng giúp họ tích cực vươn lên trong cuộc sống, cho dù có gặp phải nhiều khổ đau và bất hạnh.



CHƯƠNG 24
MỘT PHƯƠNG CHÂM XỬ THẾ


Trong thời gian chữa bệnh giúp đời, ông Cayce đã nhận được nhiều thư tín từ khắp nơi trên thế giới. Đọc những bức thư đó, người ta không khỏi lấy làm buồn tủi nghẹn ngào và động lòng trắc ẩn trước bao nhiêu nỗi đoạn trường, đau khổ, lầm than của nhân loại. Ông Cayce đã không quản công lao khó nhọc, làm việc không tiếc thân mình, bất kể ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người bằng những cuộc soi kiếp, giúp đỡ và chỉ bày các phương pháp chữa trị bệnh tật, cùng phương pháp giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ trong cuộc đời của mỗi người.

Có thư trình bày những nỗi thắc mắc, băn khoăn của đương sự, chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau:

- Tôi tự hỏi không biết ông có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ý kiến về đời sống tình cảm của tôi chăng? Tôi thật không còn biết phải làm sao nữa? Chồng tôi đã mất, tôi muốn tái giá và hy vọng có được một gia đình ấm cúng, hạnh phúc, nhưng tôi e ngại không biết có lấy được người chồng vừa ý hay không, hay là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái giá nữa?Một người đàn bà khác viết:

- Tôi không biết phải làm cách nào để chồng tôi thay đổi tính tình, để gia đình tôi được sống trong bầu không khí yên vui và hạnh phúc?

Những người viết thư bày tỏ tâm sự, dầu là thông minh hay dốt nát, giàu sang hay nghèo khó, sang quý hay hèn mạt, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy những nỗi thắc mắc băn khoăn và nguyện vọng chung của toàn nhân loại. Cho dù họ là những người nhút nhát, tánh tình khép chặt, cô đơn, bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đình rối rắm, họ đều có một nguyện vọng chung, là cải tiến tình trạng hiện tại để làm cho số phận trở nên tốt lành hơn.

Trong hầu hết mọi trường hợp, họ đều được cho biết rằng nguyên nhân tình trạng đau khổ của họ là do chính họ tự gây ra. Đó là điểm đầu tiên mà đương sự phải nhìn nhận. Xét cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những khó khăn đau khổ cho mình, và bởi đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ đó.

Bất luận sự khó khăn trắc trở đó là như thế nào, như khổ về sự cô đơn; hoặc vì người chồng tánh tình xung khắc, không thể cùng nhau hòa hợp; vì một đứa con hư hỏng; hoặc một hoàn cảnh sống chật hẹp tù túng chẳng hạn; chúng ta chỉ có thể vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi tâm tánh của chính mình. Nói cách khác, điều cần phải sửa đổi trước hết không phải là hoàn cảnh sống quanh ta mà chính là cái thái độ tinh thần và cách ứng xử hằng ngày của chúng ta.

Hãy dẹp bỏ những tánh xấu như thích chỉ trích, chê bai, sẵn sàng lên án những người chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng ngã mạn hoặc dửng dưng lạnh lùng với người khác. Hãy từ bỏ thói ích kỷ, khinh mạn và đố kỵ... Khi ta biết tu sửa tánh tình, những khó khăn chướng ngại của ta sẽ tự nó có thể được giải quyết một cách thật tự nhiên.

Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của những tôn giáo phương Đông về vũ Trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đã được những cuộc soi kiếp của ông Cayce xác nhận. Nhưng cho dù họ không thể chấp nhận quan niệm đó vì cho rằng thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ hơn là những bằng chứng được ghi trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận một cách dễ dàng tánh cách đúng đắn, hợp lý của thuyết luân hồi nhân quả. Mặt khác, vì đó là một định luật tự nhiên nên dù họ có chấp nhận hay không thì chính bản thân họ cũng không thể thoát ra khỏi sự chi phối của nó. Cũng giống như trước thời Newton thì những quả táo vẫn rơi xuống không khác gì so với sau khi ông phát biểu định luật tự nhiên về sự kiện ấy.

Nhưng đối với những ai có thể nhận hiểu và đặt niềm tin vào thuyết nhân quả thì thuyết này có thể đem lại cho họ một lẽ sống mới, một kim chỉ nam để soi hướng và dìu dắt họ trên đường đời, và một sự tin tưởng chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong những cám dỗ của cuộc đời, luôn đẩy họ vào chỗ tối tăm, cuồng loạn và không mục đích.